BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ 080.44498 A2F@BUSINESS.GOV.VN ĐĂNG NHẬP ĐĂNG KÝ FAQ
USAID SUPPORTS VIETNAMESE SMALL AND MEDIUM ENTERPRISE POST COVID-19 BUSINESS RECOVERY
Trang chủ / Tin tức cập nhật

Tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty giai đoạn 2017-2019 – Thực trạng và giải pháp

01/03/2021 04:21:00 AM Doanh nghiệp - tài chính

       Trong giai đoạn 2017-2019, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty mẹ-con hoạt động có hiệu quả với xu hướng tăng trưởng là chủ yếu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này cũng vẫn còn những tồn tại yếu kém, xuất phát từ nguyên nhân khách quan, chủ quan. Để nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của các DNNN quy mô lớn này trong thời kỳ hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0, cần có giải pháp đồng bộ về nhận thức, quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu và từ chính nội tại doanh nghiệp.

Trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến động phức tạp, bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam trong giai đoạn 3 năm 2017 - 2019 đã cải thiện, tiến bộ qua từng năm và đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực. Kết quả này đạt được nhờ sự nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, trong đó có sự đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp nhà nước với sự nhìn nhận vấn đề và chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ. Tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của tập đoàn kinh tế (TĐKT), tổng công ty (TCT) và công ty mẹ - công ty con có Công ty mẹ là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn đã ghi nhận những kết quả tích cực với xu hướng tăng trưởng là chủ yếu, thể hiện ở Bảng sau:

Bảng tổng hợp tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh của TĐKT, TCT, công ty mẹ-con giai đoạn 2017-2019

Năm 2017 2018 2019
Giá trị (tỷ đồng) Tỷ lệ so với thực hiện năm 2016 (%) Giá trị (tỷ đồng) Tỷ lệ so với thực hiện năm 2017 (%) Giá trị (tỷ đồng) Tỷ lệ so với thực hiện năm 2018 (%)
1. Tổng tài sản 2.776.384 +2% 2.690.431 +1% 2.738.532 +2%
+ Công ty mẹ 1.945.532 +7% 1.913.463 +1% 1.936.119 +2%
2. Tổng vốn chủ sở hữu 1.227.124 +4% 1.218.898 +4% 1.274.356 +4%
+ Công ty mẹ
1.087.890 +3% 1.081.714 +3% 1.112.336 +3%
3. Tổng doanh thu
1.455.921 +8% 1.420.911 +9% 1.519.646 +7%
+ Công ty mẹ
864.005 +6% 859.891 +10% 960.434 +13%
4. Lợi nhuận trước thuế
154.569 +27% 152.168 +3% 147.519 +3%
+ Công ty mẹ
112.963 +1% 108.085 +9% 101.437 +6%
5. Nộp NSNN
191.799 +4% 231.697 +5% 241.260 +7%
+ Công ty mẹ
112.634 0% 119.712 -1% 123.842 +8%

(Nguồn: Tổng hợp từ các Báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội hằng năm về tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước)

Biểu tổng hợp tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh

 

Về tình hình tài chính:

Tổng tài sản

Tổng tài sản của TĐKT, TCT trong 3 năm 2017, 2018, 2019 có xu hướng tăng theo thời gian, tăng trung bình khoảng 1% - 2% so với thực hiện năm trước. Trong cơ cấu về tài sản, tỷ trọng tài sản cố định giao động bình quân khoảng hơn 38%.

Theo bảng chỉ số nêu trên, tổng tài sản năm 2017 của Công ty mẹ tăng 7% so với thực hiện năm 2016, năm tiếp theo tăng chỉ 1% so với thực hiện năm 2017 và đến hết năm 2019 thì tăng 2% so với thực hiện năm 2018.

Trong đó, tài sản cố định cả 3 năm 2017, 2018 và 2019 chiếm 18% tổng tài sản. Hệ số tự tài trợ tài sản cố định (Vốn chủ sở hữu/Giá trị tài sản cố định) của năm 2017, 2018 và 2019 giao động khoảng gần 3,2 lần, con số này cho thấy mức độ sử dụng vốn chủ sở hữu để đầu tư vào tài sản cố định phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khá cao.

Vốn chủ sở hữu

Tổng vốn chủ sở hữu bình quân của TĐKT, TCT giai đoạn 2017-2019 khoảng 1.240.000 tỷ đồng, tỷ lệ trung bình tăng 4% so với thực hiện năm trước đó. Vốn chủ sở hữu của TĐKT, TCT tăng chủ yếu từ nguồn quỹ đầu tư phát triển được trích lập từ lợi nhuận sau thuế, chênh lệch đánh giá lại tài sản và thặng dư vốn thu được trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên, đơn vị phụ thuộc của TĐKT, TCT.

Tổng vốn chủ sở hữu bình quân của Công ty mẹ giai đoạn 2017-2019 khoảng 1.093.980 tỷ đồng, nhìn chung thì tỷ lệ trung bình tăng 3% so với thực hiện năm trước đó. Hệ số tự tài trợ bình quân (Vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản) trung bình khoảng 0,57 lần. Điều này cho thấy, các Công ty mẹ có khả năng tự chủ về tài chính tuy chưa đảm bảo sự linh hoạt và tính ổn định trong dài hạn đối với doanh nghiệp.

Tình hình sản xuất kinh doanh:

Tổng doanh thu

Tổng doanh thu của TĐKT,TCT trong 03 năm có xu hướng tăng khá đều, với mức bình quân là 1.465.493 tỷ đồng và tỷ lệ trung bình tăng là 8%; cụ thể: năm 2017 có tổng doanh thu là 1.455.921 tỷ đồng, tăng 8% so với thực hiện năm 2016; năm 2018 là 1.420.911 tỷ đồng, tăng 9% so với thực hiện năm 2017; tổng doanh thu của năm 2019 đạt 1.519.646 tỷ đồng và tăng 7% so với thực hiện năm 2018.

Công ty mẹ có tổng doanh thu là 864.005 tỷ đồng năm 2017, tăng 6% so với thực hiện năm 2016. Đến năm 2018, chỉ số này đã tăng 10% so với thực hiện năm 2017 và đạt mốc 960.434 tỷ đồng vào năm 2019, tăng 13% so với thực hiện năm 2018. Nhìn chung, Công ty mẹ có tổng doanh thu bình quân giai đoạn 2017-2019 khoảng 894.777 tỷ đồng và tỷ lệ trung bình tăng khoảng 10% so với thực hiện năm trước đó.

Lợi nhuận trước thuế

  Lãi phát sinh trước thuế của TĐKT, TCT bình quân trong giai đoạn 2017 - 2019 là 151.419 và có xu hướng giảm dần trong 3 năm thực hiện, cụ thể: Năm 2017 là 154.569 tỷ đồng, tăng 27% so với thực hiện năm 2016. Năm 2018, tỷ lệ này chỉ tăng ở mức khiêm tốn là 3% so với thực hiện năm 2017 (152.168 tỷ đồng). Tuy nhiên, năm 2019, chỉ số này chỉ đạt 147.519 tỷ đồng, giảm 3% so với thực hiện năm 2018.

Lãi phát sinh trước thuế của Công ty mẹ bình quân giai đoạn năm 2017 - 2019 là 107.495 tỷ đồng và có xu hướng giảm, cụ thể như sau: Năm 2017 là 112.963 tỷ đồng nhưng đến năm 2018 chỉ số này đã giảm 9% so với thực hiện năm 2017 là 108.085 tỷ đồng. Năm 2019, lãi phát sinh trước thuế chỉ đạt 101.437 tỷ đồng, giảm 6% so với thực hiện năm 2018.

Nộp Ngân sách nhà nước (NSNN)

Nhìn chung tổng các khoản phát sinh phải nộp NSNN có xu hướng tăng theo thời gian. Các khoản nộp NSNN bình quân trong 03 năm đạt khoảng 221.585 tỷ đồng, với mức tăng bình quân khoảng hơn 5%. Trong đó:

(i) Số phát sinh phải nộp NSNN từ hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa năm 2017, 2018, 2019 lần lượt là 132.924 tỷ đồng; 173.366 tỷ đồng và 177.115 tỷ đồng. Đồng thời, trong 3 năm này thì số phát sinh phải nộp NSNN từ hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa đều chiếm 69,3% tổng số phát sinh phải nộp NSNN.

(ii) Số phát sinh phải nộp NSNN từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong năm 2017 là 12.256 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong 2 năm 2018, 2019 đã ghi nhận chiều hướng giảm xuống trong NSNN từ hoạt động này (lần lượt là 9.621 tỷ đồng và 9.657 tỷ đồng).

(iii) Số lợi nhuận phải nộp NSNN lại cho thấy xu hướng tăng đều qua các năm (năm 2017 đạt 46.618 tỷ đồng, năm 2018 tăng lên ở mức 48.710 tỷ đồng, và năm 2019 đạt mức 54.488 tỷ đồng).

Từ số liệu nêu trên thì có thể thấy được số phát sinh nộp NSNN từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có xu hướng đi xuống nhưng số lợi nhuận phải nộp NSNN theo quy định vẫn có chiều hướng là tăng.

Tổng các khoản phát sinh phải nộp NSNN của Công ty mẹ bình quân giai đoạn 2017 - 2019 là 118.729 tỷ đồng và không có xu hướng thay đổi nhiều. Năm 2017, 2019 thì chỉ số này chiếm 43% tổng số phát sinh phải nộp NSNN và năm 2018 chỉ chiếm 40,5%. Số lợi nhuận đã nộp NSNN trong năm 2019 (bao gồm cả số nộp của năm 2018 chuyển sang) là 39.275 tỷ đồng.

Một số tồn tại hạn chế trong hoạt động của TĐKT, TCT, công ty mẹ-con và nguyên nhân

Tồn tại hạn chế trong hiệu quả hoạt động

Một là, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói chung và các doanh nghiệp theo mô hình công ty mẹ-con nói riêng chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ; năng lực cạnh tranh còn hạn chế. So sánh với khu vực doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân, khu vực DNNN tiếp tục có xu hướng giảm dần quy mô và tỷ lệ đóng góp ở tất cả các chỉ tiêu trong giai đoạn 2016-2018. Khu vực DNNN đang có chỉ số nợ cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp. DNNN chỉ hoạt động hiệu quả ở các ngành, lĩnh vực có lợi thế tự nhiên (khai thác khoáng sản, dầu khí) hoặc thống lĩnh thị trường do lịch sử để lại (như viễn thông, tài chính tín dụng).

Hai là, chưa thực hiện được nhiệm vụ dẫn dắt, tạo động lực đối với nền kinh tế. Trong các ngành, lĩnh vực có tính chiến lược nền kinh tế, các doanh nghiêp này chiếm thị phần lớn hoặc chi phối nhưng chưa quan tâm đầu tư vào các ngành, lĩnh vực có ảnh hưởng quyết định đến việc tạo động lực, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam (như các ngành công nghệ cao, có tính chất lan tỏa hoặc có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế). Vai trò của các DNNN quy mô lớn này trong dẫn dắt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài nhà nước, thúc đẩy liên kết, hình thành chuỗi giá trị gia tăng hầu như chưa thực hiện được. Phần lớn các TĐ, TCT quy mô lớn hoạt động trong ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn đều vận hành theo cơ chế tương đối khép kín, chưa khuyến khích các doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia vào các khâu của quá trình sản xuất  kinh doanh.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ một số nguyên nhân chính như sau:

(i) Nguyên nhân khách quan:

Một là, do tình hình phức tạp, căng thẳng trong các quan hệ kinh tế, chính trị trên thế giới và khu vực ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán trong nước và khu vực. Trong khi đó, quy mô thị trường chứng khoán trong nước còn chưa đủ lớn, khó có thể hấp thụ hết toàn bộ số vốn mà DNNN thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn trong một khoảng thời gian nhất định, phát triển chưa bền vững nên giá cổ phiếu trên thị trường tăng giảm bất thường, dẫn đến khó khăn cho việc cổ phần hóa, thoái vốn.

Hai là, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại giai đoạn này hầu hết là các doanh nghiệp lớn, có tình hình tài chính phức tạp, sở hữu nhiều đất đai; hoặc là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, gắn liền với các hoạt động của địa phương, đóng góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các chiến lược, mục tiêu về an sinh xã hội của địa phương. Đồng thời, giai đoạn này cũng có nhiều trường hợp bị thất thoát tài sản, vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong các giai đoạn trước (2005-2015) cần phải xử lý các tồn tại nên tiến độ CPH cũng bị chậm lại.

Ba là, việc lập phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo Nghị định số 167/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về sắp xếp lại, xử lý tài sản công còn rất chậm, đặc biệt là các thành phố lớn như thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Việc yêu cầu rà soát toàn bộ diện tích đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt trước thời điểm quyết định CPH. Tuy vậy, tiến độ trên thực tế thường bị chậm do không đủ giấy tờ hồ sơ, không thống nhất về phương án sử dụng đất, về đo đạc diện tích đất, về sự phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng tại địa phương.

(ii) Nguyên nhân chủ quan:

Một là, trong thời gian qua, chưa có định hướng chiến lược phát triển cho khu vực DNNN, đặc biệt là chiến lược phát triển kinh doanh theo hướng bền vững, chưa đáp ứng đủ năng lực để tận dụng những cơ hội phát triển của thời kỳ mới. Do vậy, các DNNN, mà trọng tâm là TĐKT, TCT còn lúng túng trong việc tìm hướng đi phát triển cho mình.

Hai là, nhiều Bộ, ngành, địa phương, TĐ kinh tế, TCT chưa khẩn trương xây dựng, phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại đối với các DNNN theo Quyết định số 707/QĐ-TTg và Chỉ thị số 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ dẫn tới việc không thể triển khai các công việc tiếp theo như cổ phần hóa, thoái vốn, thay đổi quản trị doanh nghiệp để thực sự nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Điều này xuất phát từ việc không muốn CPH, thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại.

Ba là, trong quá trình tổ chức thực hiện của một số Bộ, ngành, địa phương, TĐ kinh tế, TCT nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước. Bên cạnh đó, việc gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả sắp xếp, đổi mới DNNN chưa được thực hiện triệt để cũng dẫn đến tình trạng không hoàn thành kế hoạch tái cơ cấu, CPH DNNN.

Bốn là, một số đơn vị thuộc diện thoái vốn đang bị cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện thanh tra, kiểm tra, điều tra vì vi phạm các quy định về quản lý sử dụng vốn nhà nước theo quy định hiện hành.

Năm là, đối với những DNNN đã triển khai cơ cấu lại chưa đạt kết quả như kỳ vọng do: (i) Trình độ quản lý, quản trị doanh nghiệp, năng lực chuyên môn của người lãnh đạo còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới; (ii) Thiếu nguồn lực tài chính để thực hiện Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp, đồng bộ, hiệu quả trên các mặt sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, quản lý, tái cơ cấu tài sản, sản phẩm, thị trường, lao động... quản trị về nhân sự, tài chính; (iii) Tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của một số DNNN còn yếu kém, chưa hiệu quả, bộ máy trì trệ, nhân sự không đáp ứng được yêu cầu, tuy nhiên việc xây dựng và triển khai phương án cơ cấu lại tại các doanh nghiệp này chưa có nhiều nội dung mang tính đột phá (ví dụ như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, an sinh xã hội).

Sáu là, tính công khai minh bạch của DNNN còn hạn chế dẫn đến công tác giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu, nhà đầu tư, người dân chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình công bố thông tin của DNNN năm 2019, tính đến hết năm 2019, có 374/529 doanh nghiệp (chưa bao gồm các doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an) (chiếm 70,69% số doanh nghiệp) gửi báo cáo đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thực hiện công bố thông tin trên Cổng thông tin doanh nghiệp.

Bảy là, hiệu quả hoạt động và kết quả sắp xếp còn nhiều tồn tại xuất phát từ chính nội tại của DNNN. Công tác quản lý tài chính, dự án đầu tư, nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới sáng tạo… còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến phát sinh nhiều chi phí, chậm tiến độ, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chưa nắm bắt được thời cơ và thu hút nguồn lực của thị trường, chủ yếu sử dụng thị trường truyền thống, chưa thực sự tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nên chưa tạo được giá trị gia tăng cao.

Ðề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN:

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo các Nghị quyết của Trung ương Đảng tạo sự nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị để nâng cao hơn nữa nhận thức và có hành động quyết liệt, cụ thể trong thực hiện. Đồng thời, cần chuyển đổi tư duy từ việc DNNN, đặc biệt là DNNN quy mô lớn như TĐKT, TCT, công ty mẹ-con là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế sang tư duy chuyển hóa DNNN trở thành bộ phận của cấu trúc dẫn dắt, lan tỏa các cấu trúc khác của nền kinh tế.

Hai là, hoàn thiện chính sách tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm thúc đẩy sự phát triển và mở rộng qui mô của doanh nghiệp, thúc đẩy hình thành, phát triển bền vững DNNN quy mô lớn, trọng tâm là TĐKT, TCT. Xây dựng hệ sinh thái doanh nghiệp, hình thành các chuỗi giá trị, tiên phong trong việc thực hiện cuộc CMCN 4.0 theo Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách, chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0. Phát huy sức mạnh đoàn kết, tăng cường liên kết, hỗ trợ, giúp đỡ giữa các DNNN và các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác, tạo ra các chuỗi liên kết, cung ứng trong nước, giảm lệ thuộc vào nước ngoài.

Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý DNNN, đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả, tăng cường vai trò giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu. Xây dựng, quản lý và vận hành hệ thống dữ liệu quốc gia về DNNN theo hướng hiện đại hóa công cụ quản lý, giám sát DNNN, đầu tư xây dựng và vận hành trung tâm thông tin quản lý, giám sát các dòng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, nhất là thông qua hệ thống thông tin quản lý trực tuyến kết nối giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan đại diện chủ sở hữu với từng doanh nghiệp trực thuộc

Bốn là, trong thời kỳ mới về hội nhập kinh tế quốc với các FTA thế hệ mới (như CPTPP, EVFTA…), các DNNN cần chủ động hơn nữa trong việc hội nhập, vươn ra thị trường quốc tế, lấy thị trường nội địa làm trọng tâm, làm bàn đạp để vươn mình hội nhập, kết nối với chuỗi giá trị của khu vực và toàn cầu. Chủ động tìm hiểu thông tin, trang bị các điều kiện cần thiết, sẵn sàng tận dụng cơ hội, lợi thế của các FTAs mới để chuyển hướng, tạo chuỗi giá trị mới, củng cố và mở rộng thị trường, khẳng định thương hiệu Việt Nam trên thế giới.

DNNN quy mô lớn mà đặc biệt là các TĐ, TCT lớn cần nghiên cứu một cách sâu sắc, nghiêm túc các cơ hội và thách thức trong tương lại để định hình được chiến lược phát triển của mình khi KHCN đang thay đổi một cách nhanh chóng. Xu hướng của kinh tế số, công nghệ dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), sản xuất thông minh… là xu hướng không thể đảo ngược. Do vậy, DNNN quy mô lớn, trọng tâm là TĐKT, TCT cần đi đầu trong công tác chuyển đối số nằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

 

 

Nguồn: https://business.gov.vn/cms/tin-tuc-su-kien/chi-tiet/296/tinh-hinh-tai-chinh-va-hieu-qua-kinh-doanh-cua-doanh-nghiep-hoat-dong-theo-mo-hinh-cong-ty-me-cong-ty-giai-doan-2017-2019-thuc-trang-va-giai-phap

Từ khóa: Admin

Bình luận

Bài viết phổ biến

12/18/2021 4:19:10 PM

Quay lại Hội thảo trực tuyến “Tiếp cận cơ hội kinh doanh tại Việt Nam và Thái Lan”

Chương trình Hội thảo trực tuyến “Tiếp cận cơ hội kinh doanh tại Việt Nam và Thái Lan”.

12/31/2021 1:54:50 PM

Hội thảo “Xúc tiến Thương mại và đầu tư với Thị trường New Zealand - Tận dụng cơ hội các chuỗi giá trị mới trong khối ASEAN - NewZealand”

New Zealand hiện đang là thị trường xuất khẩu quan trọng và tiềm năng của Việt Nam cho các mặt hàng như nông sản, thủy sản, cà phê, hạt điều, máy vi tính, điện thoại, sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép, vật liệu xây dựng...

12/4/2021 4:51:05 PM

Hội thảo “Những xu hướng chính thay đổi môi trường kinh doanh và giải pháp phục hồi cho doanh nghiệp ngành lương thực thực phẩm trong bối cảnh mới”

Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh phục hồi sản xuất, tìm kiếm đối tác trong và ngoài nước sau dịch Covid-19. Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp với Hội Lương thực Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh (FFA) tổ chức chương trình “Tuần lễ Triển lãm sản phẩm ngành lương thực, thực phẩm năm 2021”

12/4/2021 5:04:09 PM

Chương trình quảng bá, giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại Phòng trưng bày hàng mẫu đặt tại Văn phòng Thương vụ Việt Nam tại Malaysia

Chương trình dành riêng cho Quý doanh nghiệp mong muốn tiếp cận và mở rộng thị trường tại Malaysia. Chương trình do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp với Thương vụ Việt Nam tại Malaysia tổ chức.

Image

ĐĂNG KÝ NHẬN HỖ TRỢ

Kết nối với chúng tôi